^Back To Top
Tâm lý, Kỹ năng mềm, Kỹ năng tìm việc...
Stress là một trong những vấn đề sức khỏe tâm thần cần phải được quan tâm trong các trường đại học, cao đẳng, nhất là sinh viên khối Sức khỏe. Tình trạng stress ở sinh viên được ghi nhận là rất nghiêm trọng nhất là trong đại dịch Covid -19.
Theo TS. BS. Huỳnh Tấn Tiến, Khoa Y Trường Đại học Quốc tế Hồng Bàng, năm 2019, tỷ lệ sinh viên Y học dự phòng Trường Đại học Y Dược TPHCM mắc stress, lo âu, trầm cảm là 45,5%; năm 2020 tại một trường ở TPHCM tỷ lệ stress là 37,9%. Các mức độ stress được phân bố lần lượt: Stress nhẹ 12,6%, stress vừa 9,9%, stress nặng 11,3% và stress rất nặng chiếm 4,1%.
Stress là một trạng thái thần kinh căng thẳng, bao gồm nhiều yếu tố như vật lý, hóa học và phản ứng của một cá thể đang cố gắng thích nghi với một sự thay đổi hay áp lực từ bên ngoài hoặc bên trong. Khi gặp tác nhân gây stress sẽ làm cho cơ thể tiết ra hormone giúp cung cấp năng lượng mạnh mẽ cho các cơ, nhịp thở nhanh hơn, nhịp tim tăng lên. [1]
Stress tâm lí: trạng thái tâm lí xuất hiện nhằm đáp ứng với tác nhân gây stress. Ví dụ: những thay đổi về trí nhớ, tập trung chú ý, các phản ứng cảm xúc…Dưới góc độ Tâm lí học, stress tâm lí là một trạng thái đặc biệt của cảm xúc. Trong trường hợp stress kéo dài, cường độ thấp, nó có thể được xem như là một trong những biểu hiện của tâm trạng. Ngược lại, nếu stress diễn ra đột ngột, trong một khoảng thời gian ngắn thì nó lại là sự thể hiện của xúc động. [2]
Các hiện tượng tâm lí vốn không tách rời nhau, trong đó trạng thái tâm lí luôn làm nền cho các quá trình tâm lí. Do vậy, những quá trình tâm lí diễn ra trên nền của stress đều chịu sự chi phối của stress. ở mức độ tối ưu, stress đảm bảo cho các quá trình tâm lí, đặc biệt là các quá trình nhận thức đạt được hiệu quả cao. Ngược lại, trong trạng thái mệt mỏi suy kiệt, hiệu quả của các quá trình tâm lí không những bị giảm sút mà toàn bộ nhân cách cũng bị ảnh hưởng. Đó chính là những trường hợp rối loạn stress hoặc distress.Lẽ đương nhiên bất kì một hiện tượng tâm lí nào cũng đều xuất hiện trên cơ sở các quá trình sinh lí. Chính vì vậy stress tâm lí không thể tách rời với stress sinh lí. Tuy thế, với tư cách là một lĩnh vực khoa học về các hiện tượng tâm lí, Tâm lí học quan tâm và nghiên cứu stress tâm lí nhiều hơn.
Trong thực tế, stress là thuật ngữ đôi khi dùng để chỉ một nguyên nhân, một tác nhân gây ra phản ứng stress (như tiếng ồn của thành phố, cái nắng nóng của sa mạc, bệnh tật, sự thay đổi chỗ ở, việc làm…), hoặc đôi khi dùng để chỉ hậu quả của những tác nhân gây kích thích mạnh (như sự hốt hoảng khi gặp thiên tai nặng nề; sự cô quạnh khi sống lâu ngoài đại dương; sự căng thẳng khi gặp những khó khăn trong công việc…). Những yếu tố đóng vai trò nguyên nhân gây ra stress thường được gọi là các yếu tố gây stress hoặc các stressor. Do vậy không nên nhầm lẫn giữa stress (trạng thái tâm-sinh lí bên trong) với các tác nhân gây stress (các yếu tố bên ngoài).
Trong điều kiện bình thường, stress là một đáp ứng thích nghi về mặt tâm lívà sinh lí. Stress đặt chủ thể vào quá trình dàn xếp thích ứng, tạo ra một cân bằng mới cho cơ thể sau khi chịu những tác động của môi trường. Nói cách khác, phản ứng stress bình thường đã góp phần làm cho cơ thể thích nghi.
Nếu đáp ứng của cá nhân với các yếu tố gây stress không đầy đủ, không thích hợp và cơ thể không tạo ra được một cân bằng mới, thì những chức năng của cơ thể ít nhiều sẽ bị rối loạn, những dấu hiệu bệnh lí cơ thể, tâm lí, hành vi sẽ xuất hiện và sẽ tạo ra những stress bệnh lí cấp tính hoặc kéo dài.
Stress có thể đem lại những hoạt động tích cực, kích thích sự tập trung trong học tập và công việc. Tuy nhiên, nếu stress quá độ, diễn ra liên tục sẽ dẫn tới sức khỏe tâm lý và thể chất chán nản, mệt mỏi, tiêu hóa kém, suy giảm miễn dịch và thậm chí có thể gây ra bệnh trầm cảm ảnh hưởng đến nhiều mối quan hệ xung quanh.
Những người có yếu tố nguy cơ cao mắc stress như:
Nguyên nhân dẫn tới stress thường do hai yếu tố tác động
Yếu tố từ bên trong:
Yếu tố từ bên ngoài:
Stress được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác như như thể chất, tinh thần, hành vi và cảm xúc
Phương pháp điều trị stress còn phụ thuộc vào thái độ hợp tác của người bệnh. Bác sĩ sẽ đưa ra lời khuyên thay đổi môi trường sống và có thể sẽ kèm theo một số loại thuốc. Những phương pháp kiểm soát và giảm stress hiệu quả như:
Stress nếu không được điều trị có thể dẫn tới biến chứng nguy hại đến sức khỏe như: bệnh rối loạn thần kinh, các bệnh tim mạch, bệnh đường tiêu hóa, sinh lý giảm sút và cơ thể dần dần suy yếu dễ mắc những bệnh truyền nhiễm,... Những phương pháp để phòng ngừa stress hiệu quả:
Ngủ đủ giấc vừa phòng ngừa stress vừa tốt cho sức khỏe
Tóm lại, stress là một trạng thái căng thẳng tinh thần, một cá thể đang cố căng phản ứng thích nghi với môi trường. Stress có thể giúp tập trung và làm việc hiệu quả hơn. Tuy nhiên, stress quá độ và thường xuyên lặp lại nếu không được can thiệp có thể dẫn tới một số biến chứng như bệnh tim mạch, tiêu hóa, thần kinh,... Do đó, khi có biểu hiện tâm lý bất ổn hay làm việc quá sức cần nghỉ ngơi, thư giãn và học cách kiểm soát cảm xúc. Ngoài ra, có thể gặp các chuyên gia tâm lý để có thể được tư vấn, có biện pháp giải quyết những vấn đề đang phải đối mặt.
Nguyễn Thị Cẩm
(Tổng hợp)
Tài liệu tham khảo
1.https://vinmec.com/vi/tin-tuc/thong-tin-suc-khoe/suc-khoe-tong-quat/stress-nguyen-nhan-trieu-chung-va-cach-dieu-tri
2.http://www.benhvien103.vn/stress-va-tam-li-nguoi-benh/
3.https://healthvietnam.vn/thu-vien/tai-lieu-tieng-viet/bac-si-tam-ly/stress-tam-li