^Back To Top
Tâm lý, Kỹ năng mềm, Kỹ năng tìm việc...
1. Đặt vấn đề
Một bài báo khoa học có chất lượng phải đáp ứng yêu cầu về nội dung và hình thức trình bày. Vì vậy, hạn chế những sai sót trong quá trình viết và công bố bài báo khoa học là rất cần thiết. Lỗi phổ biến thường gặp trong các bài báo khoa học có thể do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. Bài viết này chỉ ra ra các lỗi phổ biến trong các bài báo khoa học, nguyên nhân và biện pháp khắc phục, nhằm nâng cao chất lượng tạp chí khoa học và uy tín khoa học của tác giả.
2. Những lỗi thường gặp trong bài báo khoa học và biện pháp khắc phục
Lỗi trong khi viết bài báo khoa học là điều không mong muốn, nhưng khó tránh khỏi, kể cả các nhà khoa học dày dạn kinh nghiệm, bậc thầy trong nghiên cứu và công bố. Kết quả khảo sát của Vũ Gia Hiền (2006), Cộng đồng sinh viên kinh tế nghiên cứu khoa học (RCES)[https://rces.info/sinh-vien-kinh-te-nckh/nhung-loi-thuong-gap-khi-viet-bao-cao-nghien-cuu/], Nguyễn Văn Tuấn (2018) và tìm hiểu của tác giả trong nhiều năm tham gia quản lý Tạp chí khoa học Trường Đại học Hà Tĩnh, đọc và phản biện các bài cho một số tạp chí khoa học trong nước thì lỗi phổ biến thường gặp trong các bài báo khoa học thuộc các nhóm sau:
2.1.Lỗi sử dụng ngôn ngữ
Mục đích của một bài báo khoa học không phải để thể hiện sự phong phú về từ vựng của tác giả mà để trình bày kết quả nghiên cứu. Vì vậy, ngôn ngữ sử dụng trong bài báo phải đơn giản, rõ ràng, đảm bảo tính logic, khoa học.
Các lỗi thường gặp thuộc nhóm này gồm có: 1) Sai chính tả khá nhiều: ở tít bài, nội dung, trích dẫn tài liệu ; 2) Sử dụng các từ ngữ, ngôn ngữ không phù hợp trong các văn bản viết báo cáo khoa học; 3) Sử dụng các từ thừa thường được sử dụng trong văn nói (thì, mà, là …); 4) Dùng từ biểu cảm không phù hợp với văn phong khoa học; 5) Sử dụng từ ngữ thể hiện tính chủ quan như các đại từ ngôi thứ nhất: tôi, ta, chúng ta…; 6) Thừa từ, lặp từ, thiếu từ, viết thừa dấu.
Nguyên nhân có nhiều: 1) Không nắm vững yêu cầu về văn phong khoa học của ngôn ngữ viết khi trình bày bài báo. Vì vậy, một số tác giả sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ sử dụng trong báo chí là hoàn toàn không phù hợp; 2) Do bị chi phối bởi yếu tố cảm quan (cảm tính) của người nghiên cứu thể hiện trong bài viết, dẫn đến các diễn đạt cảm tính. Ví dụ: “chúng tôi rất ngạc nhiên nhận thấy rằng…”.
Để khắc phục các lỗi này, người viết cần lưu ý: 1) Ngôn ngữ được trình bày trong báo cáo nghiên cứu khoa học phải đảm bảo văn phong khoa học, vì không sử dụng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ sử dụng trong báo chí; 2) Để hạn chế văn nói khi viết bài tác giả, nhất là những người mới bắt đầu nghiên cứu cần thực hành viết, đọc nhiều tài liệu khoa học, có như vậy mới thuần thục trong cách diễn đạt văn phong khoa học;3) Kết quả nghiên cứu khoa học cần khách quan, vì vậy, cần phải hạn chế tối đa yếu tố cảm quan (cảm tính) của người nghiên cứu khi thể hiện trong sản phẩm viết.
2.2. Lỗi về văn phong
Văn phong (tiếng Anh: writing style) nói chung được hiểu là lối viết hay phong cách viết mang dấu ấn của cá nhân (tác giả). Thực tế, trong các văn bản tiếng Việt, chưa có định nghĩa khái niệm văn phong khoa học thống nhất. Văn phong khoa học được hiểu là văn phong sử dụng trong các công trình nghiên cứu khoa học, những bài báo khoa học thể hiện được lối viết hay phong cách viết của cá nhân .
Văn phong khoa học phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản: 1) Tính chính xác, khách quan; 2) Tính trừu tượng, khái quát; 3) Ngắn gọn, súc tích; 4) Logic, mạch lạc; 5) Sử dụng hiệu quả các phương tiện kết nối trong bài viết. T
Tóm lại, nội dung bài báo khoa học phải đảm bảo được các yếu tố: chính xác, rõ ràng, ngắn gọn, khác với cách viết trong báo chí, văn chương nói chung.
Lỗi về văn phong trong các bài viết thể hiện rõ nhất qua các trường hợp: 1) Viết lan man, tản mạn và không rõ ý chính, lủng củng; 2) Các câu trong cùng một đoạn không có sự liên kết với nhau; 3) Lối viết sử dụng theo văn phong báo chí, văn chương, giật tít, nói quá, nội dung thể hiện biểu cảm không phù hợp trong văn phong khoa học.
Nguyên nhân chủ yếu là do tác giả không đầu tư sâu trong giai đoạn viết, không thể hiện được ý muốn đề cập của tác giả, khiến ý rất khó hiểu và nhiều khi không có ý nghĩa. Đây cũng là lỗi dễ gây cảm giác khó chịu đối với người đọc và các phản biện. Một bài báo khoa học phải nên được viết một cách ngắn gọn, logic, dễ hiểu.
Để khắc phục sai sót này, người viết bài nên áp dụng một số cách thức như: 1) Viết có luận điểm, nghĩa là người viết phải biết rõ luận điểm muốn trình bày là gì, sau đó mới triển khai viết; 3) Sử dụng cách viết diễn dịch, theo lối viết này, người viết cần đặt luận điểm/câu chủ đề ở đầu đoạn; các câu tiếp theo sẽ hỗ trợ triển khai ý của câu chủ đề đó. Như vậy, nội dung sẽ trở nên rõ ràng và mạch lạc, người đọc dễ theo dõi; viết có trọng tâm, các câu phải có liên kết với nhau: Người viết không nên viết quá dài mà không có trọng tâm. Thay vào việc chú trọng độ dài, nên chú ý tới chất lượng để hướng đến việc người đọc hiểu được ý muốn truyền tải là điều quan trọng nhất`. Ngoài ra, giữa các câu cần có sự liên kết với nhau để thuyết phục được người đọc. Việc sử dụng các từ nối và tư duy viết logic sẽ giúp người viết làm được điều này.
2.3. Lỗi về nội dung bài viết
Bài báo khoa học phải đảm bảo tính khoa học, khách quan, chính xác về nội dung. Do đó, với những gì mà người viết không biết hoặc nghi ngờ thì không được đưa vào trong bài báo khoa học. Bởi vậy, người viết cần chú ý đến điều này để không mắc lỗi về mặt nội dung khoa học. Tuy nhiên, trong các bài nghiên cứu, phần giải thích kết quả nghiên cứu thường là phần có ngoại lệ trên bởi tình huống/đối tượng nghiên cứu giữa các bài là khác nhau, do đó kết quả nghiên cứu có thể khác nhau. Trong trường hợp này, việc đưa ra quan điểm cá nhân để giải thích cho các kết quả không như thông thường là điều cần thiết để kết quả nghiên cứu thể hiện trong bài viết được thuyết phục. Nếu mọi quan điểm từ góc độ cá nhân có logic và hợp lí thì mới thuyết phục người đọc/phản biện.
Một bài viết có nhiều lỗi là điều không thể chấp nhận, dễ bị Ban Biên tập tạp chí từ chối. Vì vậy, sau khi hoàn thành bản thảo cuối cùng cần đọc kỹ để phát hiện kịp thời lỗi câu chữ hoặc in ấn cũng như các lỗi khác có thể có. Nếu có điều kiện, nên nhờ tới sự hỗ trợ của người có kinh nghiệm trong viết bài báo khoa học hoặc các đồng nghiệp đọc, góp ý về cách viết và sửa chữa để bài viết có chất lượng cao hơn.
2.4. Lỗi đạo văn
Có nhiều cách hiểu về đạo văn (trong Hán tự: đạo là ăn cắp; văn: văn học/văn chương), vì thế, đạo văn trong các tài liệu trước đây thường để chỉ sự giả dối trong lĩnh vực văn chương, không liên quan nhiều đến nghiên nghiên cứu khoa học. Ví dụ: Từ điển Tiếng Việt định nghĩa đạo văn là “lấy, hoặc căn bản lấy sáng tác văn học của người khác làm của mình” [Hoàng Phê, 2003]; hoặc Từ điển từ Hán Việt định nghĩa đạo văn là “ăn cắp văn chương của người khác” [Phan Văn Các, 2003].
Đạo văn theo định nghĩa trong Từ điển tiếng Anh Cambrid (Combride Dictionary ), “Plagiarism - the prosess or pratice of using another person idears or work and pretending that it í your own” . Dịch: “Đạo văn là hành vi và thói quen sử dụng ý tưởng hoặc công trình của người khác làm của mình”.
Ngoài ra, còn một số cách hiểu khác như: đạo văn là “sử dụng ý tưởng hay câu văn của người khác một cách không thích hợp (tức không ghi rõ nguồn gốc)” (Nguyễn Văn Tuấn, 2018); hoặc đạo văn là việc người viết sử dụng lại các nguồn tài liệu tham khảo mà không trích dẫn hoặc trích dẫn không đúng quy định.
Dưới đây là kết quả thăm dò ý kiến hai Tổng biên tập của Tập san kinh tế [Ender và Hoover, 2004] về các lỗi đạo văn.
Bảng: Các lỗi đạo văn theo khảo sát của Ender và Hoover (2004)
TT | Các lỗi mắc phải | Tỷ lệ (%) |
1 | Sử dụng những câu văn đã công bố của người khác mà không đề nguồn | 34% |
2 | Sử dụng câu văn và dữ liệu từ những nguồn chưa công bố | 58 % |
3 | Sử dụng những câu văn và dữ liệu từ những nguồn đã công bố | 66 % |
4 | Sử dụng ý tưởng mà không đề nguồn | 16 % |
5 | Sử dụng tư liệu mà không đề nguồn | 48 % |
Kết quả thăm dò trên đây của hai tác giả cho thấy, tỷ lệ mắc lỗi bị kết luận là đạo văn ở các nội dung trong bài viết có sự phân hóa cao, qua đó cũng khuyến cáo người viết phải cẩn thận để tránh vi phạm khi sử dụng ý tưởng, công trình của người khác.
Đạo văn là lỗi rất nặng, bị đánh giá về mặt đạo đức, liêm chính trong nghiên cứu và công bố, nếu bị phát hiện. Tuy nhiên, nhiều tác giả vẫn vi phạm do không chịu khó tìm hiểu thông tin của các tác giả đi trước hoặc cố ý và thiếu ý thức về các quy định trong nghiên cứu khoa học.
Để tránh vi phạm, khi viết bài phải luôn luôn chú ý trích dẫn nguồn khi sử dụng lời trích, đọc nhiều tài liệu khoa học tin cậy để học hỏi cách viết; kiên nhẫn viết, tự đọc lại nhiều lần và sửa chữa khi khả năng viết chưa tốt. Có thể thay vì trích dẫn, tác giả có thể tóm lược ý chính, nghĩa là diễn đạt lại ý chính của đoạn văn gốc bằng một đoạn văn cô đọng và rất chung chung, mà không hẳn dùng lại những chữ của tác giả gốc thì không bị coi là đạo văn. Sau khi hoàn thành bản thảo tốt nhất, nên nhờ tới sự hỗ trợ của giảng viên hướng dẫn nếu là sinh viên hay những người có kinh nghiệm để được góp ý về cách viết và sửa chữa để bài viết có chất lượng cao hơn.
2.5. Lỗi về cấu trúc: Mỗi Tạp chí đều có quy định về cấu trúc, mà người viết phải tuân thủ. Ví dụ: Ngoài phần tên bài báo, họ tên tác giả, địa chỉ cơ quan, điện thoại, hộp thư, tóm tắt tiếng Việt và tiếng Anh và tài liệu tham khảo, bài báo được kết cấu thành 3 phần: 1. Đặt vấn đề; 2. Nội dung; 3. Kết luận (Tạp chí Khoa học Trường Đại học Hà Tĩnh).
Thông thường, cấu trúc của một bài báo gồm có: Tiêu đề; Tên tác giả và địa chỉ liên hệ; Tóm tắt; Từ khóa; Đặt vấn đề; Phương pháp nghiên cứu; Kết quả và bàn luận; Kết luận; Tài liệu tham khảo; Phụ lục (nếu có).
Tuy nhiên, một số tác giả (không phải lần đầu viết bài) vẫn tùy tiện thay đổi tên mục. Ví dụ: 1. Đặt vấn đề, có người sửa thành: 1. Giới thiệu, có người đặt 1.Mở đầu, v.v…
2.6. Lỗi trình bày: bảng, sơ đồ, biểu đồ không khoa học (đặt sai vị trí tên bảng, tên biểu đồ đánh số thứ tự, nghèo nàn về số liệu và lượng thông tin, màu khó đọc…), do không chú ý.
2.7. Lỗi trình bày tài liệu tham khảo: do không nắm được quy định (quy chuẩn). Mỗi tạp chí khoa học có quy định về cách trình bày tài liệu tham khảo. Lỗi này khá phổ biến, một số tạp chí có uy tín trong nước cũng không ngoại lệ. Dưới đây là những dẫn chứng cụ thể về cách trình tài liệu của 3 Tạp chí khoa học có chỉ số ISSN (xin dấu tên) để so sánh.
Tài liệu tham khảo |
Tài liệu tham khảo |
Tài liệu tham khảo |
(1) Bùi Văn Nghị. Vận dụng lí luận vào thực tiễn dạy học môn Toán ở trường phổ thông. NXB Đại học Sư phạm. (2) Phí Thị Thùy Vân. Vận dụng lí thuyết kiến tạo trong dạy học một số chủ đề hình học cho học sinh giỏi Toán THCS. Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 2014. (3) Nguyễn Bá Kim. Phương pháp dạy học môn Toán. NXB Đại học Sư phạm Hà Nội, 2014. (4) Nguyễn Hứu Châu. Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá trình dạy học. NXB Giáo dục, H. 2006.
|
[1]. Nguyễn Như An (2017), Một số giải pháp quản lý hoạt động của tổ chuyên mônt trường tiểu học trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Giáo dục số 416, kì 2- tháng 10 /2017. [ 2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông (Ban hành kèm theo Thông tư 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26/12/2018 [4]. Lê Thị Liên (2018), Một số biện pháp quản lý hoạt động của tổ chuyên môn trong trường tiểu học theo hướng “tổ chức biết học hỏi”, Tạp chí Giáo dục, số Đặc biệt – tháng 8/2018. |
Hoàng Phê (2006), Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây. Lê Huy Bắc (2002), Văn học Mỹ, Nhà xuất bản Đại học Sư phạm. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử (20026), Từ điển thuật ngữ văn học.
|
Các ví dụ trên cho thấy, việc trình bày tài liệu tham khảo trong các bài báo khoa học giữa các tạp chí chưa thống nhất, ngay trong một tạp chí thì việc trình bày nội dung này giữa các bài viết cũng có khi không thống nhất. Nhiều tạp chí yêu cầu rất khắt khe về việc trình bày tài liệu tham khảo, ví dụ: Trường Đại học quốc tế Hồng Bàng quy định về Tài liệu tham khảo: Chọn lọc không quá 15 tài liệu tham khảo và được lập theo tiêuchuẩn IEEE (tham khảo thêm hướng dẫn theo tiêu chuẩn IEEE tiếng Anh ở IEEE CitationStyleGuide).
2.8. Lỗi viết tắt không đúng quy định: Các chữ viết tắt có tác dụng làm cho bài viết dễ đọc, đọc nhanh hơn, giảm bớt số trang để đảm bảo theo quy định của tạp chí. Một số trường hợp lạm dụng các chữ viết tắt gây khó khăn cho người đọc ngay cả khi đã được giải thích. Nguyên nhân là do không nắm được quy định viết tắt. Trong bài báo khoa học, nên viết tắt các thuật ngữ chuyên ngành, tên các tổ chức đơn vị…nếu dùng nhiều lần, và trước khi viết tắt phải viết đầy đủ. Ví dụ: Giáo viên (GV), học sinh (HS), nghiên cứu khoa học (NCKH).
Tóm lại, các tác giả cần đọc kỹ các quy định và hướng dẫn về cách viết và công bố bài báo khoa học của các tạp chí, nếu không muốn bị từ chối. Ngoài ra, có thể học hỏi cách viết bài báo khoa học của các tác giả có uy tín và đồng nghiệp có kinh nghiệm.
3. Kết luận
Nâng cao chất lượng bài viết của tạp chí khoa học là một đòi hỏi bức thiết hiện nay, đánh dấu sự phát triển của mỗi tạp chí và uy tín cá nhân ( tác giả). Việc đầu tư cho giai đoạn viết bài là hết sức quan trọng.
Chất lượng mỗi tạp chí khoa học phụ thuộc nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, trong đó chất lượng bài viết, năng lực phản biện là yếu tố quyết định.
Ở các trường đại học, để nâng cao năng lực lực viết bài cho tạp chí khoa học mỗi cán bộ, giảng viên, sinh viên cần được trang bị những kiến thức tổng quan về một bài báo khoa học, cách viết một bài báo khoa học để được công bố, chỉ ra những sai sót, lỗi thường gặp, lý do vì sao bài báo bị các tạp chí từ chối đăng; kinh nghiệm đăng bài báo quốc tế; cung cấp những văn bản pháp quy về cách viết và trình bày văn bản (định dạng, chính tả, cách ghi đơn vị, kí hiệu…), và sự nỗ lực của các cơ quan chủ quản tạp chí và các nhà khoa học là quan trọng nhất.
Bài viết đề cập những vấn đề khá nhạy cảm, nhưng rất cần thiết, mong muốn được chia sẻ với đồng nghiệp và người học trong lộ trình thực hiện viết và công bố bài báo khoa học - một công việc hoàn toàn không nhẹ nhàng, đúng như một nhà lý luận phê bình văn học đã viết: “Mỗi bài viết là một cuộc vật lộn mới, một cuộc phấn đấu mới, nếu không cố gắng hết sức thì có thể viết xuống tay dần, nghĩa là thụt lùi”, [Nguyễn Đăng Mạnh,(2017]. Vì vậy, người nghiên cứu phải nỗ lực không ngừng với tinh thần trách nhiệm và lòng say mê, biết đặt mình vào vị trí người đọc, suy nghĩ những điều người đọc mong muốn, kỳ vọng./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phan Văn Các (2003), Từ điển từ Hán Việt, NXB thành phố Hồ Chí Minh.
Vũ Cao Đàm (2008), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Giáo dục.
Vũ Gia Hiền (2006), Để viết bài luận tốt, NXB Lao động.
Nguyễn Đăng Mạnh (2017), Nghiệp văn và bục giảng, NXB Thanh niên.
Hoàng Phê (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển, Trung tâm Từ điển học.
Nguyễn Văn Tịnh (Chủ biên) - Chu Trọng Tuấn (2023), Giáo trình Kỹ năng nghiên cứu khoa học, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Văn Tuấn (2020), Kỹ năng mềm cho nhà khoa học - Từ nghiên cứu đến công bố, NXB Tổng hợp Hồ Chí Minh.
Ender W, Hoover G.A. Whose line is it? Plagiarism in economics. J. Economic Lt 2004.
http://hvsnd.edu.vn/nghiencuu-traodoi/the-nao-la-mot-bai-bao khoa hoc 4241, ngày 10/09/2018.
https://rces.info/sinh-vien-kinh-te-nckh/nhung-loi-thuong-gap-khi-viet-bao-cao-nghien-cuu/
hhtps://dictionary.combride.org/vi/dictionary/Engglish/plagiarism.
https://tapchikhcn.haui.edu.vn/vn/html/quy-trinh-phan-bien.