^Back To Top
Tâm lý, Kỹ năng mềm, Kỹ năng tìm việc...
1.Đặt vấn đề
Giáo dục đại học Việt Nam đang đặt ra thách thức phải áp dụng mô hình này sao cho phù hợp để tiệm cận với nền giáo dục hiện đại trên thế .Bằng cách kết hợp những ưu thế của mô hình dạy truyền thống và trực tuyến (E-learning), mô hình học tập kết hợp (Blended Learning) đã mang lại những lợi ích trong giáo dục và đây là mô hình đang dần trở thành xu thế tất yếu của thế giới trong giáo dục đào tạo.
2.Nội dung
2.1. Khái niệm” Blended Learning”.
Mô hình Blended Learning được kế thừa từ sự phát triển của mô hình học trực tuyến. Có rất nhiều cách tiếp cận khái niệm “Blended Learning”.
Theo Từ điển tiếng Anh, Blended Learning là mô hình học tập kết hợp và bổ trợ cho nhau giữa cách học trực tuyến và cách học truyền thống. Đây là phương pháp được Trường Đại học Cambridge nghiên cứu đầu tiên trong việc giảng dạy ngoại ngữ, sau đó mô hình này được áp dụng rộng rãi trong các tổ chức đào tạo khác .
Thuật ngữ Blended Learning được khái quát là việc sử dụng các phương pháp giảng dạy trong lớp học truyền thống cùng với việc sử dụng tuyến cho cùng một sinh viên học cùng một nội dung trong cùng một khóa học. Đó là “sự kết hợp chu đáo giữa trải nghiệm học tập trực tiếp và trực tuyến”
. Ngoài ra, còn có các chương trình kết hợp, trong đó sinh viên học một số khóa học trong lớp học trực tiếp và các khóa học khác được cung cấp hoàn toàn trực tuyến phương pháp học trực tuyến
2.2. Các mô hình của Blended Learning
Mô hình Blended Learning được phân thành sáu mô hình, căn cứ vào đặc thù của từng lớp học mà người dạy có thể lựa chọn mô hình phù hợp.
2.2.1.Mô hình Face-to-face (giảng dạy trực diện hay trực tiếp)
Là hình thức dạy học mà người học tiếp thu nội dung bài học thông qua sự tương tác trực tiếp của người dạy và kết hợp các phương tiện kết nối internet, phù hợp với những lớp học đa dạng về trình độ, nơi mà khả năng nhận thức của người học có sự chênh lệch. Mô hình này tổ chức theo kế hoạch cố định và thực hiện tại lớp học truyền thống.
2.2.2. Mô hình Rotation (mô hình xoay vòng)
Là mô hình giống như mô hình học tập theo trạm, trong đó người học học tập luân phiên giữa các trạm học tập hoặc học tập trực tuyến hoặc học trực tiếp với người dạy. Mô hình này đòi hỏi người học phải thay đổi địa điểm học tập hoặc luân phiên hình thức học tập theo lịch trình học tập và phù hợp với cấp bậc thấp hơn GDĐH
2.2.3.Mô hình Flex (linh hoạt)
Hầu hết chương trình giảng dạy được phân phối trên nền tảng kĩ thuật số, nguời học chủ yếu học tập trực tuyến và người dạy đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn, thảo luận. Mô hình này phù hợp với những người hạn chế về thời gian đến lớp hoặc vừa học vừa làm.
2.2.4. Mô hình Lab- Mô hình Labs (phòng thực hành)
Chương trình đào tạo trực tuyến và người học tập trung học tại những phòng máy chuyên dụng trên lớp. Mô hình này tiết kiệm về cơ sở vật chất và nguồn lực bởi giáo viên sẽ không tham gia trực tiếp mà thay vào đó là các trợ giảng tham gia quản lí trực tiếp và giải đáp thắc mắc cho người học.
2.2.5. Mô hình Self - blend (tự học)
Bên cạnh lớp học truyền thống, người học có thể tham gia các khóa học trực tuyến nằm ngoài chương trình học chính thống để trau dồi kiến thức. Mô hình này đòi hỏi người học tự khai thác kho tài liệu số đã được đồng bộ hóa và nó phù hợp với cấp độ đại học nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và kĩ năng cho người học.
2.2.6. Mô hình Online Driver (nền tảng trực tuyến)
Người học hoàn thành khóa học dựa trên nền tảng quản lí trực tuyến, sự tương tác giữa người học và người dạy thông qua phần mềm trực tuyến. Mô hình này giúp người học linh động trong thời gian học tập phù hợp với những người gặp trở ngại về khoảng cách địa lí.
Như vậy, các mô hình học tập kết hợp đều có sự pha trộn giữa học truyền thống và học trực tuyến ở các mức độ khác nhau, đặc biệt tạo tính linh động cho người học. Bên cạnh đó, mô hình Blended Learning thực sự lí tưởng cho những người học trầm tính khi mà họ thích sử dụng tính năng trò chuyện để chia sẻ ý kiến và cũng cho phép người dạy kết nối với người học theo những cách sâu sắc, chân thực hơn bất chấp khoảng cách địa lí. Học tập kết hợp có thể được thực hiện ở nhiều mức độ khác nhau (Bonk & Graham, 2006) như kết hợp ở mức độ hoạt động, kết hợp ở mức độ khóa học, kết hợp ở mức độ chương trình và kết hợp ở mức độ tổ chức.
Trong đó, việc áp dụng học tập kết hợp ở mức khóa học là diễn ra phổ biến nhất . - Kết hợp ở mức độ hoạt động: Xảy ra khi một hoạt động học tập chứa cả hai hình thức trực tiếp và trực tuyến;
- Kết hợp ở mức độ khóa học: Đòi hỏi một sự kết hợp của các hoạt động trực tiếp và trực tuyến riêng biệt trong một khóa học. Sự kết hợp có thể cùng thời gian, cũng có thể được sắp xếp hợp lí theo chuỗi thời gian;
- Kết hợp ở mức độ chương trình: Đòi hỏi người học chọn kết hợp giữa các học phần trực tiếp và các học phần trực tuyến hoặc kết hợp giữa hai hình thức. Việc tổ chức thực hiện theo phương án chương trình đã thiết kế;
- Kết hợp ở mức độ tổ chức: Các cơ sở đào tạo đang tạo ra mô hình kết hợp ở cấp độ tổ chức, tùy thuộc cách thức tổ chức của mỗi nơi mà sự kết hợp có thể khác nhau. Như người học có thể tham gia các khóa trực tuyến từ xa vào học kì hè để tích lũy các học phần khi họ không tập trung ở trường hoặc người học sẽ có học kì bắt đầu và kết thúc trực tiếp nhưng ở các học kì giữa chương trình thì có thể tham gia trực tuyến.
Học tập kết hợp đóng một vai trò quan trọng trong giáo dục với sự phát triển nhanh chóng của học trực tuyến. Đào tạo theo mô hình Blended Learning là chìa khóa thông minh mở ra cánh cửa rộng lớn để tiếp cận với nền giáo dục thế giới, với phương châm công nghệ phải đi trước một bước tạo nền tảng vững chắc để nâng cao chất lượng công tác đào tạo đại học. Mô hình này được coi là phương thức đào tạo ưu việt bởi sự hài hòa tưởng chừng như trái ngược giữa truyền thống và trực tuyến mang lại nhiều lợi ích và sự thuận tiện cho người học, người dạy và cán bộ quản lí.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Simon, M, (2014), Is Blended Learning the Future of Higher Education? A discussion of MOOCs, Gamers, Connectivists’ and Sceptics, Studies of regional policy, 17(1), p.67-91.
[2] Graham, C. R., Woodfield, W., & Harrison, J. B, (2013), A framework for institutional adoption and implementation of blended learning in higher education, Internet and Higher Education, 18(3), p.4-14, Doi: 10.1016/j.iheduc.2012.09.003.
[3] Garrison, D. R., & Vaughan, N, (2008), Blended learning in higher education, San Francisco, CA: Jossey-Bass. Bonk, C. J., & Graham, C. R. (Eds.), (2006), Handbook of Blended Learning: Global Perspectives, Local Designs, San Francisco, CA: Pfeiffer Publishing
[4] Bonk, C. J., & Graham, C. R. (Eds.), (2006), Handbook of Blended Learning: Global Perspectives, Local Designs, San Francisco, CA: Pfeiffer Publishing
[5].Hồ Ngọc Khương, Mô hình Blened Learning trong giáo dục đại học và thực tiễn áp dụng ở các trường đại học, Tạp chí Khoa học Giáo dục, số 45 tháng 9 năm 2021